Vì sao gọi là 'mồng một Tết cha, mồng hai Tết mẹ, mồng ba Tết thầy'



Cho đến tận ngày nay, dân gian vẫn lưu truyền câu nói: "Mùng 1 Tết cha, mùng 2 Tết mẹ, mùng 3 Tết thầy" như lời nhắc nhở về phong tục, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Câu nói: "Mồng một Tết cha, mồng hai Tết mẹ, mồng ba Tết thầy" được xem như là câu cửa miệng của người Việt mỗi khi Tết đến xuân về. Nó hàm chứa ý nghĩa phân chia ngày thăm Tết của các gia đình nhằm mong muốn sum vầy cùng cha mẹ, thể hiện đạo hiếu, uống nước nhớ nguồn.

Nguồn gốc câu "mồng một Tết cha, mồng Tết mẹ, mồng ba Tết thầy"

Theo Giáo sư Ngô Đức Thịnh - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam - từng chia sẻ với Zing.vn chữ "Tết" trong câu thành ngữ trên là sự rút gọn của động từ "chúc tết". Việc chúc tết cha mẹ, thầy cô giáo đã trở thành đạo lý mà mỗi người phải hoàn thành trước khi bước vào những cuộc ăn chơi đầu năm mới.

Theo nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, các sách xưa chỉ ghi "mồng một Tết cha, mồng ba Tết thầy", không có đoạn "mồng hai Tết mẹ". Câu có cả 3 vế là dân gian mới, được nảy sinh do cách cấu tạo tục ngữ theo kiểu nói kéo theo, bắt xắp, dài ra cho có vần vè.

vi-sao-goi-la-mong-mot-tet-cha-mong-hai-tet-me-mong-ba-tet-thay

"Mùng một Tết cha, mùng hai Tết mẹ, mùng ba Tết thầy" để thể hiện truyền thống "tôn sư trọng đạo", "uống nước nhớ nguồn" của người Việt.

Bên cạnh đó, TS. Nguyễn Hùng Vĩ - nguyên giảng viên Đại học Quốc gia Hà Nội, cũng cắt nghĩa phong tục đi Tết vào ba ngày Tết của người Việt Nam trên VnExpress: Các sách xưa chỉ ghi "Mồng một Tết cha, mồng ba tết thầy. Sách ghi xưa nhất câu này còn có thể đọc là cuốn Nam âm sự loại, sách Hán Nôm, do Vũ Công Thành soạn và đề tựa vào năm 1925.

Sau này, một bậc cựu học là cụ Trần Duy Vôn, khi làm sách Câu cửa miệng cũng ghi như vậy. Sách cụ làm tuy in muộn (năm 1999) nhưng bản thảo đã có từ rất lâu trước đó. Các sách sưu tầm sau này cũng đều chỉ ghi Mồng một Tết cha, mồng ba Tết thầy, chứ không có đoạn mồng hai Tết mẹ.

Tại sao vậy? Có hai khả năng diễn ra: Thứ nhất, ông với bà, cha với mẹ thường ở với nhau, hà cớ gì Tết ông mà không Tết bà luôn, Tết cha mà không Tết mẹ luôn. Sách khảo cứu lễ tiết về dịp Tết Nguyên đán của các cụ Phan Kế Bính, Toan Ánh, Nhất Thanh cũng không nói chuyện Tết mẹ, hay Tết bên ngoại như thế nào.

Thứ hai , hoặc giả dân gian ngày xưa từng nói cả câu có cụm mồng hai Tết mẹ nhưng những người ghi chép bỏ sót hoặc vì cớ gì đó mà cố tình bỏ bớt cụm này. Điều này khó xảy ra vì đạo hiếu xưa, cha mẹ đều tôn trọng như nhau, chưa kể tình cảm con người thì "phụ mẫu tình thâm" hướng về mẹ nhiều hơn. Các cụ trọng lễ nghĩa chắc không đến nỗi sơ sót đến nhường vậy.

Giới nghiên cứu văn hóa dân gian nghiêng về phía cho rằng, câu có cả ba vế là dân gian mới, được nảy sinh do cách cấu tạo tục ngữ theo kiểu nói kéo theo, bắt xắp, dài ra cho có vần vè. Kiểu này trong thành ngữ tục ngữ rất thường thấy.

Từ khi nói kéo theo mồng hai Tết mẹ thì người ta lại tìm cách giải thích: Cha là bên nội, mẹ là bên ngoại cho hữu lý. Tức là mồng một thì chúc Tết bên nội, mùng hai thì về nhà ngoại thăm hỏi, chúc tụng.

Và từ cách nói đó, sau này người ta thấy hợp lý và hành động theo, thành ra tập quán mới. Tục ngữ là phương châm ứng xử và ứng xử trong câu tục ngữ Mồng một Tết cha, mồng hai Tết mẹ, mồm ba Tết thầy rất nên trong xã hội ngày nay.

Giải nghĩa 'mồng một Tết cha, mồng hai Tết mẹ, mồng ba Tết thầy'

Theo quan niệm xưa, cha là bên nội, mẹ là bên ngoại. Tức là mồng một vợ chồng, con cái, anh chị em ruột thịt tập trung sang chúc Tết bên nội, mồng hai thì về nhà ngoại thăm hỏi, chúc tụng, tỏ lòng thành kính. Đến mồng ba thì thăm thầy thể hiện truyền thống tôn sư trọng đạo.

Mồng một Tết cha

Trong sách Việt Nam phong tục (1915), cụ Phan Kế Bính (đỗ cử nhân Hán học năm 1906, là nhà báo vừa có cựu học, vừa có có tinh thần duy tân) viết về mồng một Tết: "Cúng gia tiên xong thì con cháu ra mừng tuổi ông bà cha mẹ, lạy hai lạy. Ông bà cha mẹ mừng cho con cháu mỗi đứa một vài xu hoặc một vài hào, gọi là tiền mừng tuổi".

Mồng hai Tết mẹ

Sang ngày mồng hai Tết, vợ chồng con cái ở riêng hoặc đi làm ăn xa nay có dịp về quê ăn Tết nhớ sang nhà ông bà cha mẹ bên ngoại. Nghi thức chung cũng tương tự như bên nội. Con cháu chúc tụng ông bà cha mẹ và ông bà cha mẹ mừng tuổi con cháu bằng những đồng tiền mới bọc trong giấy hồng điều tượng trưng.

vi-sao-goi-la-mong-mot-tet-cha-mong-hai-tet-me-mong-ba-tet-thay

Sau những nghi thức vừa trang trọng vừa đầm ấm thân tình như thế, ông bà cha mẹ con cháu thường tổ chức ăn cỗ Tết đông vui. Nghi thức chúc Tết và ăn ngày đầu xuân bao giờ cũng để lại ấn tượng sâu đậm cho mọi người, đặc biệt là tuổi thơ về hạnh phúc gia đình đầm ấm, có trên có dưới, đầy đủ, viên mãn. Nếp sống đẹp ngày Tết thể hiện sự tri ân của con cháu với ông bà cha mẹ hai bên nội ngoại - cái gốc sinh thành và giáo dưỡng mình nên người.

Mồng ba Tết thầy

Ngày xưa thầy đồ dạy học đa số không có chuyện biên chế hay giáo chức ăn lương nhà nước như bây giờ, trừ trường đặc biệt do triều đình lập ra. Người học trước thông chữ hoặc đỗ đạt dạy cho người học sau. Học trò muốn học thì kiếm buồng cau xin nhập môn và lạy thầy hai lạy. Đủ học trò, thầy chọn ngày tế thánh rồi mở lớp. Học hết chữ thầy này, nếu muốn theo đòi bút nghiên, trò lại tìm thầy nhiều chữ hơn để học lên.

Thu nhập của các thầy đồ là quà cáp của phụ huynh. Có sách xưa đã viết, lúc học có năm ngày Tết, như Tết Nguyên đán, Tết thanh minh, Tết đoan dương, Tết Trung thu, mùa nào thức ấy, hoặc cặp gà thúng gạo, hoặc đường mứt bánh trái, hoặc dăm ba quan tiền, tùy tình đa thiểu mà đem đến lễ thầy.

Đạo lý thầy trò ngày xưa rất trọng, thầy được coi trọng như cha. Nhà thầy có việc hiếu hỉ, thì trò thông qua trưởng tràng, giám tràng (cán bộ lớp), chăm lo như việc của chính nhà mình. Khi thầy quy tiên, học trò cũng để tang ba năm, có điều không phải tang phục, tang chế đầy đủ. Để tang trong bụng gọi là tâm tang. Học trò thành đạt thường giúp đỡ thầy trong cuộc sống. Nhà thầy không có con trai nối dõi cúng tế thì trò phải cúng tế cho đến hết đời mình. Người xưa chọn "mùng ba Tết thầy" là theo cái đạo nghĩa đó.

Theo GiaDinh